Nhiều tiềm năng khác biệt, lợi thế so sánh và cơ hội nổi trội, nguồn lực phong phú là điều kiện, tiền đề để Bình Định bước vào thời kỳ phát triển mới, tạo sự bứt phá vươn lên trở thành tỉnh phát triển hàng đầu vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung bộ.
21 ĐÔ THỊ VÀO NĂM 2030
Ngày 23/12/2023, UBND tỉnh Bình Định đã tổ chức Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Bình Định thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1619/QĐ-TTg.
Theo quy hoạch, đến năm 2030, Bình Định sẽ là trung tâm công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, du lịch và văn hóa phía Nam của vùng; trung tâm lớn của cả nước về phát triển kinh tế biển; trọng điểm du lịch quốc gia và quốc tế.
Kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, bền vững và xanh dựa trên các trụ cột tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ du lịch, cảng biển – logistics; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đô thị hóa.
Xây dựng đô thị thông minh, phát triển đô thị gắn với hình thành, phát triển đô thị khoa học, thung lũng sáng tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI), các trường đại học.
Đến năm 2030, toàn tỉnh Bình Định có 21 đô thị, gồm: 1 đô thị loại I (TP. Quy Nhơn), 2 đô thị loại III (thành phố An Nhơn, thành phố Hoài Nhơn), 3 đô thị loại IV (thị xã Tây Sơn, thị xã Tuy Phước, thị trấn Cát Tiến), 15 đô thị loại V (thị trấn Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão, Tăng Bạt Hổ, Phù Mỹ, Bình Dương, Ngô Mây, An Hòa, Mỹ Chánh, Cát Khánh, Canh Vinh, Mỹ Thành, Mỹ An, Cát Hanh, Ân Tường Tây).
Về công nghiệp, đến năm 2030, Bình Định phát triển 15 khu công nghiệp (6.714 ha), 68 cụm công nghiệp (3.470 ha).
(Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cùng các đại biểu xem quy hoạch mới tỉnh Bình Định)
Trung tâm hành chính mới là Khu Kinh tế Nhơn Hội
Theo quy hoạch, tỉnh Bình Định sẽ phát triển, mở rộng TP. Quy Nhơn về phía Đông Bắc, lấy đầm Thị Nại là trung tâm. Trung tâm hành chính mới của tỉnh chuyển ra Khu Kinh tế Nhơn Hội trên cơ sở chuyển đổi đất công nghiệp sang đô thị, dịch vụ. Phát triển khu Đô thị Khoa học mang tầm cỡ quốc gia.
Đến năm 2050, Bình Định trở thành trung tâm kinh tế biển; trung tâm khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nơi ứng dụng trí tuệ nhân tạo quan trọng của Việt Nam; trung tâm du lịch lớn của cả nước, trung tâm kết nối khu vực vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông – Tây.
Tỉnh cũng sẽ thực hiện thành công các mục tiêu chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước; chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh thuộc nhóm cao của cả nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại, hệ thống đô thị phát triển theo hướng đô thị thông minh, kết nối thuận tiện với các trung tâm kinh tế của vùng, cả nước và quốc tế.
PHÁT TRIỂN THEO 3 HÀNH LANG KINH TẾ
Về phát triển không gian đô thị: Bình Định sẽ phát triển theo mô hình 02 vùng, 03 cực phát triển và 03 hành lang kinh tế.
Cụ thể, 02 phân vùng gồm: Bắc và Nam. Trong đó, phân vùng Bắc gồm 04 đơn vị hành chính phía Bắc: đô thị Hoài Nhơn, huyện Phù Mỹ, Hoài Ân, An Lão. Đây là vùng phát triển bảo tồn rừng tự nhiên, phát triển du lịch sinh thái; chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản công nghệ cao; các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng mới (hydrogen/amoniac xanh…); sản xuất thiết bị phụ trợ, chế biến gang thép, đóng tàu, cảng biển – logistics.
Phân vùng Nam gồm 07 đơn vị hành chính phía Nam: TP. Quy Nhơn, đô thị An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn và các huyện Vân Canh, Phù Cát, Vĩnh Thạnh là vùng động lực chính của tỉnh, phát triển đa ngành: công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử bán dẫn, nông nghiệp, du lịch, thương mại, dịch vụ, cảng biển – logistics, đô thị thông minh, các dự án năng lượng tái tạo.
Ba cực phát triển: TP. Quy Nhơn và vùng phụ cận là động lực chính, hạt nhân phát triển phía đông Nam tỉnh Bình Định; Thị xã Hoài Nhơn là cửa ngõ phía Bắc, đồng thời là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển phía bắc tỉnh Bình Định; Huyện Tây Sơn (dự kiến là đô thị Tây Sơn) là cực phía Tây và là hạt nhân thúc đẩy phát triển ở khu vực này.
Ba hành lang kinh tế gồm: Hành lang kinh tế Bắc Nam phát triển dọc theo quốc lộ 1, kết nối các đô thị và khu, cụm công nghiệp của tỉnh Bình Định với các khu, cụm công nghiệp dọc duyên hải Trung Bộ, phát triển công nghiệp, đô thị và thúc đẩy giao thương Bắc – Nam;
Hành lang kinh tế biển: dọc tuyến đường bộ ven biển (ĐT.639), kết nối các không gian kinh tế ven biển, phát triển đô thị du lịch dịch vụ biển, công nghiệp gang thép, công nghiệp phụ trợ, đóng tàu, cảng biển, nuôi trồng thủy hải sản;
Hành lang kinh tế Đông – Tây phát triển dọc theo các tuyến giao thông Đông – Tây của quốc lộ 19, thúc đẩy giao thương với vùng kinh tế thuộc các tỉnh Tây Nguyên là đầu mối xuất khẩu nông, lâm, thổ sản; nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu đầu vào của một số ngành sản xuất vùng Tây Nguyên.
Về tăng trưởng kinh tế, giai đoạn 2021 – 2030, Bình Định đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt từ 8,5% trở lên, trong đó giai đoạn 2021 – 2025 đạt bình quân 7 – 7,5%/năm và giai đoạn 2026 – 2030 đạt 9,8% – 10,8%/năm.
Đến năm 2030, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 30 – 35 nghìn tỷ đồng/năm. Đến năm 2030, tổng lượt khách du lịch đạt 12 triệu khách/năm, trong đó có 2,5 triệu lượt khách quốc tế và 9,5 triệu lượt khách nội địa. Vốn đầu tư huy động giai đoạn 2021 – 2030 khoảng 800 – 850 nghìn tỷ đồng.
Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, bản quy hoạch tỉnh Bình Định được xây dựng với tư duy đột phá, tầm nhìn dài hạn dựa trên tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội và lợi thế cạnh tranh. Quy hoạch sẽ mở ra những cơ hội, không gian phát triển mới cho tỉnh Bình Định, được kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mới để Bình Định phát triển đột phá và tạo ra kỳ tích về phát triển kinh tế – xã hội.
Nâng công suất Cảng hàng không Phù Cát lên 5 triệu hành khách/năm
Theo quyết định phê duyệt Quy hoạch của Bộ Giao thông và Vận tải, Cảng hàng không Phù Cát của tỉnh Bình Định là cảng hàng không nội địa. Đến năm 2030, cảng sẽ được đầu tư mới nhà ga, mở rộng sân đỗ, xây dựng thêm đường cất hạ cánh thứ hai và các đường lăn phù hợp với quy hoạch.
Thời kỳ 2021-2030, cảng sẽ được nâng cấp sân bay 4C; công suất 5 triệu hành khách/năm và 12.000 tấn hàng hoá/năm; Tầm nhìn đến năm 2050, cấp sân bay 4C; công suất 7 triệu hành khách/năm và 27.000 tấn hàng hóa/năm.